Lan Đình tập tự 蘭亭集序 của Vương Hy Chi • Bài tựa cho Lan Đình thi tập
Lan Đình tập tự
Vĩnh Hoà cửu niên, tuế tại Quý Sửu, mộ xuân chi sơ, hội ư Cối Kê sơn âm chi Lan Ðình, tu hễ sự dã. Quần hiền tất chí, thiếu trưởng hàm tập. Thử địa hữu sùng sơn tuấn lĩnh, mậu lâm tu trúc; hựu hữu thanh lưu kích thoan, ánh đới tả hữu. Dẫn dĩ vi lưu thương khúc thuỷ, liệt toạ kỳ thứ; tuy vô ty trúc quản huyền chi thịnh, nhất thương nhất vịnh, diệc túc dĩ sướng tự u tình. Thị nhật dã, thiên lãng khí thanh, huệ phong hoà sướng; ngưỡng quan vũ trụ chi đại, phủ sát phẩm loại chi thịnh; sở dĩ du mục sính hoài, túc dĩ cực thị thính chi ngu, tín khả lạc dã.
Phù nhân chi tương dữ, phủ ngưỡng nhất thế, hoặc thủ chư hoài bão, ngộ ngôn nhất thất chi nội; hoặc nhân ký sở thác, phóng lãng hình hài chi ngoại. Tuy thú xá vạn thù, tĩnh táo bất đồng; đương kỳ hân ư sở ngộ, tạm đắc ư kỷ, khoái nhiên tự túc, bất tri lão chi tương chí. Nãi kỳ sở chi ký quyện, tình tuỳ sự thiên, cảm khái hệ chi hĩ. Hướng chi sở hân, phủ ngưỡng chi gian, dĩ vi trần tích, do bất năng bất dĩ chi hứng hoài; huống tu đoản tuỳ hoá, chung kỳ ư tận. Cổ nhân vân: "Tử sinh diệc đại hĩ." Khởi bất thống tai! Mỗi giám tích nhân hứng hoài chi do, nhược hợp nhất khế; vị thường đắc lâm văn ta điệu, bất năng dụ chi ư hoài. Cố tri nhất tử sinh chi hư đản, tề Bành thương chi vọng tác. Hậu chi thị kim, diệc do kim chi thị tích, bi phù!
Cố liệt tự thi nhân, lục kỳ sở thuật, tuy thế thù sự dị, sở dĩ hứng hoài, kỳ trí nhất dã. Hậu chi giám dã, diệc tương hữu hoài ư tư văn.
Bài tựa này Vương Hy Chi viết cho tập thơ do các bạn ông sáng tác trong một buổi hội thơ ở Lan Đình, núi Cối Kê (Lan Đình là tên một ngôi đình cổ ở Sơn Âm, nay thuộc Triệu Hưng, Chiết Giang) do Vương Hy Chi và anh em danh sĩ Tạ An xây dựng). Buổi hội này tổ chức nhân dịp lễ "hễ". Lễ "hễ" là lễ trừ tà, tẩy uế gồm có lễ xuân hễ tổ chức vào ngày mồng 3 tháng 3 âm lịch, và thu hễ tổ chức vào 14 tháng 7 âm lịch (tính theo tây lịch, buổi hội thơ này nhằm vào ngày 22-4-353).
Thuở xưa khi vào cuối xuân khí trời chuyển ấm, người ta thường ra nơi bờ sông, suối làm lễ tẩy uế, tắm rửa – theo tín ngưỡng thì để trừ đi tà khí của mùa đông lạnh khi khí trời ấm lên. Sang đến đời Lục triều thì thì ý nghĩa trừ tà mất đi, buổi lễ trở thành một dịp họp mặt của các văn nhân thi sĩ.
Hôm ấy, Vương Hy Chi cùng với 41 thi khách tham gia buổi hội thơ, tham dự trò chơi thả chén đặt thơ. Trong trò chơi này mọi người sẽ theo thứ tự già trẻ ngồi dọc theo bên bờ suối, những chén rượu được thả trôi xuống từ đầu dòng nước, lần lượt các thi nhân được mời hạ bút sáng tác một bài thơ trước khi cái chén trôi qua trước vị trí của mình. Nếu không xong thì sẽ bị phạt rượu. Chỉ có 26 người được cuộc trong trò chơi này. Và 26 bài thơ đó được tập thành trong một tập thơ gọi là Lan Đình thi tập. Thi tập này được Vương Hy Chi viết lời tựa bằng một bút pháp tinh xảo của riêng ông theo thể Hành. Và từ đó trở về sau những người luyện thư pháp thường lấy làm mẫu để mô phỏng lối viết của ông và để viết những tấm thiếp tặng cho nhau mà người đời sau thường gọi thủ bút của ông là thiếp Lan Đình.
Nguyên bản thủ bút của Vương Hy Chi giờ đây không còn nữa, tương truyền là vào đời Đường, Đường Thái Tông vì quá mê thư pháp của Vương Hy Chi đã ra lệnh chôn những bức hoạ thư đó cùng với mình. Đời nay còn lại chỉ là các bản lâm của các thư gia nổi tiếng.
Năm Kỷ Sửu, Vĩnh Hoà thứ chín, sắp vào cuối xuân; cùng họp nhau nơi Lan Đình, phía bắc núi Cối Kê, soạn lễ trừ tà. Quần hiền già trẻ đều đến. Đất ấy có núi cao non xinh; rừng xanh tốt, trúc vút cao; thêm suối trong cuộn chảy, lấp loáng bóng đôi bờ. Theo dòng nước uốn lượn có thể thả chén rượu đặt lời thơ. Hết thảy đều chia thứ bậc cùng ngồi. Tuy vắng tiếng đàn sáo ca xang, nhưng một chén rượu, một lời ngâm cũng đủ vui mà bày giải khối tình u uẩn. Ngày hôm ấy trời trong mây lành, gió mát ru êm. Trông theo trời, vũ trụ bao la; cúi xem đất, muôn loài tươi tốt. Buông lòng cảm hứng theo đôi mắt dõi trông, cũng đủ thích mắt vui tai. Thật sướng lắm thay.
Phàm người cùng người tương hội chỉ là trong thoáng chốc của cuộc đời; có người khi giao tiếp giữ kín hoài bão bên trong, có người phóng lãng hình hài ký thác lòng mình ra ngoài lời. Khi buông thả, khi nắm giữ; lúc lặng, lúc mau khác biệt muôn vàn. Tuy vậy mà vẫn lấy làm vui, dầu trong chốc lát, chẳng biết tuổi già đang đến. Rồi khi tự thân mòn mỏi, tâm tình theo sự vật đổi thay, khiến lòng đầy cảm khái. Niềm vui giờ đây trong khoảnh khắc bỗng biến thành vết bụi mờ; như thế thì lòng ai không luyến tiếc. Huống chi cuộc đời dài ngắn biến hoá, rồi cũng đến lúc tận chung. Người xưa thường nói, việc tử sinh là việc lớn, há chẳng xót xa ư! Mỗi khi xét đến cảm hứng trong văn chương của người xưa rồi cùng hợp lại, thì lòng ta lại vì lời văn mà trỗi mối u hoài không giải rõ được vì sao. Cố khăng cho sống chết như một là chuyện hư dối, lấy cái thọ của Bành Tổ mà so với cái yểu của Thương Sinh là giả vọng. Đời sau nhìn lại nay cũng như nay nhìn lại xưa, cả đều buồn thay!
Vậy đây theo thứ tự các thi nhân mà chép lại; tuy tuổi tác chẳng đồng, sự việc có khác nhưng lòng hoài cảm thì như nhất. Người sau xem lại, hẳn vì lời thơ mà gợi niềm thương cảm hơn chăng.
Đương khi niên hiệu Vĩnh Hoà,
Năm là quý sửu tháng là mộ xuân.
Giủ nhau khắp mặt xa gần,
Lan đình tắm mát nhiều phần thảnh thơi.
Đồng liêu đủ bốn mươi hai,
Có già có trẻ tới nơi vang lừng.
Có non có núi có rừng,
Có giòng nước quấn ở chừng chung quanh.
Thuận giòng chén chú chén anh,
Dù không đàn sáo ca sinh cũng vừa.
Một chén rượu một bài thơ,
Bao nhiêu tình tính dường như tỏ bày.
Chén vui lại gặp hôm nay,
Mây trong gió mát, hơi bay ngạt ngào.
Xa trông đất rộng trời cao,
Gần trông hoa cỏ cảnh nào chẳng vui.
Xem nghe thì thật là vui,
Biết rằng vui có lâu dài được chăng.
Kìa người ta bình thường cư xử,
Thì mỗi ngày tâm sự khác nhau.
Có người trong bụng vô cầu,
Một nhà tụng đọc bao lâu cũng đành.
Có người chơi muốn thích tình,
Miễn không câu thúc hài hình thì thôi.
Dù rằng không ai giống ai,
Hễ khi thích chí thì vui những là.
Thú vui sung sướng mặn mà,
Nào ai có biết cái già đến sau.
Chơi bời khi đã giờ lâu,
Tình theo cảnh đổi, đeo sầu lắm thay.
Trước vui chưa được mấy ngày,
Mà trong chớp mắt đổi thay chẳng còn.
Đó là sự nhỏ con con,
Ngẫm cơ chuyển vận lòng còn lo âu.
Huống người có số đoản tu,
Trăm năm chỉ thấy cỏ khâu xânh gì.
Tử sinh là sự bất kỳ,
Nghĩ đi nghĩ lại nghĩ thì càng đau.
Người xưa tính cuộc bể dâu,
Trong lòng đau đớn cũng hầu như ta.
Xen văn cũ lòng đà ta điệu,
Tự nhiên thương không hiểu làm sao.
Biết ai bày đặt những điều,
Tử sinh thọ yểu, nói liều như nhau.
Nỗi niềm nghĩ đến mà đau,
Bây giờ nghĩ trước như sau nghĩ giờ.
Kìa người kìa rượu khì thơ,
Bâng khuâng vì cảnh ngẩn ngơ vì tình.
Buồn trông áo trắng muông xanh,
Tình kia ai cũng như mình mà thôi.
Ngậm ngùi tay thảo một bài,
Sau xem hẳn cũng có người đồng tâm.
Sưu tầm: Linh Calvin